Máy bay tại sân bay Tân Sơn Nhất - Ảnh: Hoàng Triều

Một trong những điểm đáng chú ý tại Nghị định mới là mức vốn tối thiểu để thành lập và duy trì doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng không không còn phân biệt giữa doanh nghiệp (DN) có khai thác vận chuyển hàng không quốc tế và DN chỉ khai thác vận chuyển hàng không nội địa.

Theo quy định mới, mức vốn tối thiểu để khai thác đến 10 máy bay là 300 tỉ đồng, khai thác từ 11 đến 30 máy bay là 600 tỉ đồng và khai thác trên 30 máy bay là 700 tỉ đồng, không phân biệt nội địa và quốc tế.

Trong khi đó, con số tương ứng được quy định tại Nghị định 92 là 700 tỉ đồng, 1.000 tỉ đồng và 1.300 tỉ đồng với DN có khai thác vận chuyển hàng không quốc tế. Nếu chỉ khai thác nội địa mà không khai thác quốc tế, số vốn này tương ứng là 300 tỉ đồng, 600 tỉ đồng, 700 tỉ đồng.

Mức vốn tối thiểu để thành lập và duy trì doanh nghiệp kinh doanh hàng không chung vẫn giữ như cũ là 100 tỉ đồng.

Ngoài ra, theo quy định mới, DN kinh doanh vận tải hàng không có vốn đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài chiếm không quá 34% vốn điều lệ; phải có ít nhất một cá nhân Việt Nam hoặc một pháp nhân Việt Nam giữ phần vốn điều lệ lớn nhất. Trường hợp pháp nhân Việt Nam có vốn đầu tư nước ngoài góp vốn, phần vốn góp nước ngoài chiếm không quá 49% vốn điều lệ của pháp nhân. Trước đó, mức vốn của nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần không quá 30% vốn điều lệ.

Một điều kiện được loại bỏ trong Nghị định sửa đổi mới ban hành của Chính phủ là việc "phải phù hợp với quy hoạch phát triển giao thông vận tải hàng không". Như vậy, để lấy được giấy phép kinh doanh vận tải hàng không, các nhà đầu tư chỉ cần đáp ứng các điều kiện về phương án bảo đảm có máy bay khai thác, tổ chức bộ máy, vốn, phương án kinh doanh và chiến lược phát triển sản phẩm quy định.

Nghị định mới cũng đã cắt giảm, đơn giản hóa các điều kiện về tổ chức bộ máy và nhân lực; năng lực sản xuất phương án kinh doanh và điều kiện về trụ sở, địa điểm kinh doanh chính tại Việt Nam.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2020.

Về quy định tuổi máy bay nhập khẩu, Nghị định sửa đổi của Chính phủ quy định rõ: Máy bay thực hiện vận chuyển hành khách không quá 10 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm nhập khẩu vào Việt Nam theo hợp đồng mua, thuê mua, không quá 20 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm kết thúc hợp đồng thuê. Riêng đối với máy bay trực thăng không quá 25 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm kết thúc hợp đồng thuê;

Đối với máy bay vận chuyển hàng hóa, bưu phẩm, bưu kiện, kinh doanh hàng không chung: Không quá 15 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm nhập khẩu vào Việt Nam theo hợp đồng mua, thuê mua, không quá 25 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm kết thúc hợp đồng thuê;

Các loại máy bay khác ngoài các loại kể trên muốn nhập khẩu vào Việt Nam phải không quá 20 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm nhập khẩu vào Việt Nam theo hợp đồng mua, thuê mua, không quá 30 năm tính từ ngày xuất xưởng đến thời điểm kết thúc hợp đồng thuê.

Các chủng loại máy bay nhập khẩu vào Việt Nam được Cục Hàng không liên bang Mỹ (FAA) hoặc Cơ quan an toàn hàng không châu Âu (EASA) hoặc Nhà chức trách hàng không Việt Nam cấp Chứng chỉ loại máy bay.

D.Ngọc