A01-T7 - Honda Daklak
Dangfarm - A02
Cho thuê nhà 29 Lê Hồng Phong

Tòa án Cư M’gar vi phạm nghiêm trọng tố tụng, VKS kháng nghị.

09:37 | 24/07/2013

Ngày 22/7/2013, Viện KSND tỉnh Đăk Lăk đã ban hành Quyết định Số: 723/KNPT- P5, Kháng nghị toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 24/2013/DSST ngày 25/6/2013 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk theo thủ tục phúc thẩm.

Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đưa vụ án ra xét xử theo hướng hủy án sơ thẩm.

Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2013/DSST ngày 25/6/2013 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, giải quyết vụ kiện: “Tranh chấp hợp đồng thuê khoán tài sản ” giữa:

Nguyên đơn: Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Buôn Ya Wầm

Địa chỉ: 109 Mai Hắc Đế, TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Quốc Tấn; chức vụ: Trưởng ban quản lý tài sản Công ty.

Bị đơn: Ông Nguyễn Xuân Tường

Địa chỉ: Thôn 14, xã Ea Kiết, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.

Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên đã quyết định:

Áp dụng Điều 483, Điều 501, Điều 506 Bộ luật dân sự; Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Buôn Ya Wầm.

Buộc ông Nguyễn Xuân Tường phải trả cho Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Buôn Ya Wầm 12.854,1 kg cà phê quả tươi.

2. Về án phí: Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Buôn Ya Wầm không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại 2.731.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0012489 ngày 20/11/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư M’gar.

Ông Nguyễn Xuân Tường phải chịu 4.884.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Án sơ  thẩm cũng tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy địnhcủa pháp luật.

Ngày 15/7/2013, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhận được bản án dân sự sơ thẩm trên.

Sau khi xem xét bản án, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhận thấy:

Theo đơn khởi kiện ngày 16/11/2012, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải thì đại diện ủy quyền của nguyên đơn Ông Phan Quốc Tấn trình bày: Công ty TNHH một thành Viên Lâm nghiệp Buôn Ya Wầm (gọi tắt là Công ty) và ông Hà Ngọc Hoành ký kết hợp đồng thuê khoán tài sản với diện tích 0,4 ha; ký kết với ông Lê Xuân Thúy hợp đồng với diện tích 0,3 ha; ký kết với ông Nguyễn Văn Thọ hợp đồng với diện tích 01 ha.

Trong quá trình thuê khoán tài sản ông Hoành đã cho ông Nguyễn Xuân Tường thuê lại hợp đồng vào ngày 30/9/2007; ông Thúy cho ông Tường thuê lại hợp đồng vào ngày 30/8/2007; Riêng ông Thọ cho ông Thái Văn Huyên thuê lại hợp đồng vào ngày 05/11/2009, ông Huyên cho ông Trần Văn Vớn thuê lại hợp đồng và ông Vớn cho ông Tường thuê lại vào ngày 06/6/2010.

Việc các bên cho thuê lại hợp đồng nói trên không thông báo cho Công ty biết, sau khi kiểm tra, Công ty chấp nhận việc các bên cho thuê lại hợp đồng và cùng ông Nguyễn Xuân Tường đối chiếu công nợ của các hợp đồng mà ông Tường đã thuê lại.

Tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 20/7/2011, ông Tường chấp nhận số nợ còn tồn đọng của ông Hoành theo hợp đồng là 4.213,9 kg cà phê quả tươi; tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 20/7/2011, ông Tường chấp nhận số nợ còn tồn đọng của ông Thúy theo hợp đồng là 2.345 kg cà phê quả tươi; tại biên bản đối chiếu công nợ không đề ngày ông Tường chấp nhận số nợ còn tồn đọng của ông Thọ là 7.113kg cà phê quả tươi, sau khi trừ khoản nợ của 0,1 ha đất đã chuyển đổi là 6.401 kg cà phê quả tươi.

Như vậy ông Tường còn nợ Công ty tổng cộng là 12.960,3 kg cà phê quả tươi, tuy nhiên Công ty chỉ yêu cầu ông Tường trả 12.854,1 kg quy đổi giá cà phê tại thời điểm là 8.500đồng/kg thành tiền là 109.259.850 đồng.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải, bị đơn ông Nguyễn Xuân Tường trình bày:

Ông thừa nhận việc thuê lại hợp đồng đối với 03 lô cà phê có diện tích 0,4 ha của ông Hoành; 0,3 ha của ông Thúy và 01 ha của ông Thọ, sau này còn 0,9 ha vì 0,1 ha đã chuyển đổi thành đất ở là đúng như đại diện của Công ty đã trình bày. Tuy nhiên, khi đối chiếu công nợ của các hợp đồng do ông thuê lại, ông không xem nội dung các biên bản đối chiếu công nợ.

Khi ký kết hợp đồng mới vào ngày 12/3/2012 đối với các lô cà phê diện tích 0,3 ha, 0,4 ha, 0,9 ha thì ông cũng không xem nội dung của hợp đồng.

Các khoản nợ Công ty yêu cầu là các khoản nợ của hợp đồng cũ, thuộc nghĩa vụ của ông Hoành là 4.213,9 kg cà phê quả tươi; ông Thúy là 2.345 kg cà phê quả tươi và ông Thọ là 6.401 kg cà phê quả tươi, các khoản nợ này không thuộc trách nhiệm của ông, nên ông không chấp nhận trả cho Công ty số cà phê quả tươi là 12.854,1 kg.

Xét thấy cấp sơ thẩm nhận định: Tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 20/7/2011, ông Trường chấp nhận số nợ còn tồn đọng của ông Hoành theo hợp đồng là 4.213,9 kg cà phê quả tươi; của ông Thúy là 2.345 kg cà phê quả tươi; tại biên bản đối chiếu công nợ ngày 04/5/2011, ông Tường chấp nhận số nợ còn tồn đọng của ông Thọ là 7.113kg cà phê quả tươi, sau khi trừ khoản nợ của 0,1 ha đất đã chuyển đổi, còn lại là 6.401 kg cà phê quả tươi, nhưng cấp sơ thẩm lại không đưa các ông Hoành, ông Thúy, ông Thọ ông Huyên, ông Vớn vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, là vi phạm khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại các biên bản đối chiếu công nợ thể hiện: nợ sản lượng từ năm 1999 đến năm 2010 (kg) đối với hợp đồng của ông Hoành là 4.213,9 kg; đối với ông Thúy là 2.345 kg; đối với ông Thọ từ năm 1999 đến năm 2009 là 7.113 kg, nhưng cấp sơ thẩm lại không xác minh, đối chất để làm rõ số nợ cũ, nợ mới giữa các ông Hoành, ông Thúy, ông Thọ, ông Huyên với ông Tường và có việc chuyển giao nghĩa vụ hay không, mà vẫn buộc ông Tường trả nợ cho Công ty, là vi phạm Điều 314, Điều 315 Bộ luật dân sự; Điều 86, Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự.

Cấp sơ thẩm buộc ông Nguyễn Xuân Tường phải trả cho Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Buôn Ya Wầm 12.854,1 kg cà phê quả tươi, nhưng lại không đưa vợ ông Tường là bà H’Biêm Ayun tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là rất khó cho việc thi hành án, vi phạm khoản 4 Điều 56 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, khách quan, toàn diện và chính xác, nên cần phải huỷ án sơ thẩm để giải quyết lại theo đúng quy định pháp luật./.

Phạm Thị Thanh

    Nguồn: vksdaklak.gov.vn

    BÌNH LUẬN

      BÌNH LUẬN CỦA BẠN

      M03-Honda Daklak
      ĐỐI TÁC
      Lên đầu trang Đặt làm trang chủ